Còn tại Việt Nam, dù có hơn 300.000 người môi giới, nhưng chỉ có khoảng 30.000 người có chứng chỉ hành nghề và đã được đào tạo với khoảng 2.000 văn phòng môi giới, sàn giao dịch bất động sản, nên phần lớn người môi giới đang hoạt động tự do kiểu "cò đất cò nhà".
những người sau đây không được quyền hưởng di sản: a) người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người đó; b) người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) người bị kết án vì hành vi cố ý xâm …
Trong quá trình làm việc, mặc dù có các thiết bị bảo hộ lao động nhưng người lao động vẫn phải đối mặt với rủi ro xảy ra tai nạn lao động.Có một trường hợp mà nhiều người lao động băn khoăn khi gặp phải đó là trường hợp xảy ra tai nạn lao động nhưng hoàn toàn do lỗi của người lao động thì
Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết
Phương pháp 2: Đặt kiểm soát tài khoản người dùng là "Không thông báo" Nếu bạn sử dụng cả hai phương pháp, rủi ro bảo mật có thể tăng lên. Đồng thời, máy tính và mạng có thể dễ dàng bị người dùng gây hại và phần mềm độc hại như vi-rút tấn công.
Tuy nhiên, cần phân biệt người bị truất quyền hưởng di sản với người không được chỉ định trong di chúc. Cả hai đều là những người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản trong di chúc.
Người vợ sẽ không có quyền đồng sở hữu miếng đất được tặng cho. Và khi chẳng may ly hôn, miếng đất này cũng không thuộc đối tượng tài sản cần phải được phân chia. Cần phải rõ ràng khi tặng cho Trong mọi mối quan hệ đều nên rõ ràng quan điểm với nhau. Vì có thể mất lòng trước nhưng sẽ tránh những rắc rối về sau.
2V13z5Z. Người không được quyền hưởng di sản quy định tại Điều 643 BLDS2005 bao gồm cả người thừa kế theo pháp luật, cả người thừa kế theo di không được quyền hưởng di sản quy định tại Điều 643 BLDS2005 bao gồm cả người thừa kế theo pháp luật, cả người thừa kế theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định của pháp luật thì họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được người lập di chúc cho họ hưởng nhưng những người này lại có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo luật cũng như theo di chúc. 1. Căn cứ xác định người không có quyền hưởng di sản Để xác định người không có quyền hưởng di sản, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định về vấn đề này. Cụ thể tại Điều 643 BLDS. Đây là quy định nêu ra những trường hợp không được quyền hưởng di sản. Các nhà làm luật đã dựa vào một số căn cứ sau để đưa ra quy định về các trường hợp đó – Hiện nay, các quan hệ về thừa kế nói chung và các quan hệ về người không được hưởng di sản nói riêng ngày càng đa dạng. Để đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như việc thống nhất quản lí bằng pháp luật, Nhà nước ta đã ra quy định về vấn đề người không được quyền hưởng di sản. – Việc quy định về vấn đề này còn dựa trên những quan niệm đạo đức, phong tục tập quán ở nước ta. Thừa kế là một quan hệ mang tính đạo đức và phong tục tập đây khi chưa có pháp luật thì đạo đức và phong tục tập quán làm luôn cả nhiệm vụ của pháp luật trong việc giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội theo ý muốn chủ quan, theo phong tục tập quán nơi họ sinh sống và theo những gì mà họ cho là đúng. Pháp luật và đạo đức, phong tục tập quán có mối quan hệ qua lại vô cùng chặt chẽ. Pháp luật được xây dựng dựa trên đạo đức và những phong tục tập quán tốt đẹp. Theo đó, khi những người lẽ ra được hưởng thừa kế nhưng lại có hành vi bất xứng thì việc họ không được quyền hưởng thừa kế là một việc phù hợp với đạo đức và phong tục tập quán của chính chúng ta. 2. Người bị truất quyền hưởng di sản Truất quyền thừa kế là việc người để lại thừa kế không cho người thừa kế hưởng di sản của mình. Đây là một trong những quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 648 BLDS. Theo đó, những người bị truất quyền chỉ là những người thừa kế theo pháp luật. Một người thừa kế theo pháp luật bị truất quyền hưởng di sản nếu trong di chúc, người lập di chúc nói rõ là truất quyền hưởng di sản của họ. Và đương nhiên khi đó, người thừa kế đã bị truất quyền hưởng di sản sẽ mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định. Cần phân biệt người bị truất quyền hưởng di sản với người không được chỉ định trong di chúc. Cả hai trường hợp trên đều là người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản. Tuy nhiên người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản có thể không phải người bị truất quyền còn người bị truất quyền là người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản. Thông thường, người lập di chúc sẽ chỉ định cho cá nhân, tổ chức hay Nhà nước là người hưởng di sản và cũng có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật mà không phải nêu lí do truất. Việc truất quyền thừa kế này phải được ghi rõ trong di chúc là truất quyền thừa kế của ai hay không cho ai hưởng di sản. Bên cạnh đó, đối với những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc quy định cụ thể tại Điều 669 BLDS vẫn được quyền hưởng di sản thừa kế bằng hai phần ba của một suất thừa kế theo luật cho dù đã bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản. Họ chỉ không được hưởng di sản nếu từ chối nhận di sản hoặc rơi vào một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS. 3. Người bị tước quyền hưởng di sản Khoản 1 Điều 643 BLDS quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản. Đó chính là những trường hợp bị tước quyền thừa kế do có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm… của người để lại di sản và những người thừa kế khác, có những hành động không xứng đáng với bổn phận của mình. Việc tước quyền hưởng di sản này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí nhà nước. Theo quy định của pháp luật thì những người này không được quyền hưởng di sản. Những người này đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định họ là người thừa kế của người để lại di sản vì họ thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản hoặc đã được người để lại di sản lập di chúc cho họ hưởng thừa kế. Đó là những trường hợp >>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài Tuy nhiên, nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự tự do ý chí của các bên trong thừa kế và nhằm tôn trọng ý chí của người để lại di sản nên những người nói trên vẫn được hưởng di sản theo Khoản 2 Điều 643 BLDS “…nếu người để lại di sản biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”. Đối với những người không được quyền hưởng di sản theo quy định của “Bộ luật dân sự 2015” họ chỉ đương nhiên không được quyền hưởng di sản khi được chia theo pháp luật. Và khi xác định suất thừa kế theo pháp luật để tính kỷ phần cho những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 BLDS, họ không là tham số trong số chia để tình nhân suất. Tóm lại, người không được quyền hưởng di sản theo nghĩa rộng bao gồm cả người bị truất quyền hưởng di sản và người bị tước quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS trừ trường hợp quy định tại Điều 669.
Câu hỏi Tôi có vấn đề cần Luật sư tư vấn như sau Hiện trong gia đình tôi có 2 anh em. Bố tôi sở hữu căn nhà đứng tên của ông và ông sắp đang bệnh không biết còn sống được bao lâu, mẹ tôi thì đã mất. Nay bố đã quyết định để lại căn nhà cho 2 anh em nhưng do anh tôi muốn nhận hết phần, nhưng vì trong quá trình trước đó chăm sóc bố tôi không được tốt, đã từng có tiền án tiền sự về hành vi ngược đãi ông một cách nghiêm trọng. Vậy Luật sư có thể tư vấn cho tôi rằng về quyền được hưởng di sản của anh tôi được không. Xin cảm ơn. Luật sư trả lời Công ty Luật TNHH SB LAW cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. Liên quan đến thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau Căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 về thừa kế thì bạn và anh trai của bạn đều có quyền hưởng di sản của bố bạn. Tuy nhiên, theo như thông tin bạn cung cấp thì anh trai bạn đã từng có tiền án tiền sự về hành vi ngược đãi bố bạn một cách nghiêm trọng và chăm sóc bố bạn không tốt. Căn cứ vào Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Người không được quyền hưởng di sản như sau “1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản a Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. 2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.” Như vậy, theo quy định trên thì anh trai của bạn sẽ không có quyền hưởng di sản do bố bạn để lại.
Pháp luậtTư vấn Thứ năm, 13/11/2008, 1644 GMT+7 Pháp luật hiện nay có quy định nào về việc tước quyền thừa kế đối với con cái do ngược đãi, hành hạ cha, mẹ không? Người lập di chúc giả mạo để chiếm đoạt di sản nhưng bị phát hiện kịp thời có được hưởng di sản thừa kế không? Ngô Thị Mai, Diễn Châu, Nghệ An. Trả lời Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự, những người sau đây không được quyền hưởng di sản thừa kế a Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Theo quy định trên, con cái có hành vi ngược đãi, hành hạ cha, mẹ hoặc người lập di chúc giả mạo để chiếm đoạt di sản sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định những người thuộc vào một trong những trường hợp nói trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Như vậy, về nguyên tắc, việc tước quyền hưởng di sản thừa kế của những người nói trên chỉ thực hiện trong trường hợp thừa kế theo pháp luật. Nếu di chúc cho họ được hưởng di sản bị phát hiện là giả mạo thì người giả mạo không được hưởng di sản thừa kế. Thạc sĩ Phạm Thanh BìnhCông ty Luật Hồng Hà, Hà NộiSố 8 Đình Ngang, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Người không được quyền hưởng di sản, người từ chối quyền hưởng di sản, người bị truất quyền hưởng di sản được quy định như thế nào? Trong quan hệ thừa kế, những người là vợ hoặc chồng, con… của người chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc là những người được hưởng thừa kế của người chết. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp họ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, trái với thuần phong mĩ tục của nhân dân Việt Nam, xâm hại đến danh dự, uy tín, tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ, anh, chị, em, vợ, chồng,… Người có những hành vi như vậy không xứng đáng được hưởng di sản thừa kế của người mà họ đã xâm phạm tới. Theo đó, khoản 1 Điều 643 quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản “a Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự định đoạt của người có di sản, người này vẫn có thể được hưởng nếu biết nhưng vẫn viết di chúc cho họ được hưởng. Người từ chối nhận di sản được quy định tại khoản 2 Điều 642 BLDS “Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản”. Quyền từ chối nhận di sản của người thừa kế được pháp luật thừa nhận với điều kiện việc từ chối nhận di sản không nhằm chốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Việc từ chối nhận di sản cũng cần có điều kiện về thời gian “Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng, kể từ thời điểm mở thừa kế…” Tuy nhiên người từ chối nhận di sản có quyền từ chối theo các mức độ kác nhau, họ có thể chỉ từ chối quyền hưởng di sản được chia theo di chúc mà không từ chối quyền hưởng di sản được chia theo pháp luật và ngược lại. Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật như Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột… mà không nhất thiết phải nêu lý do, người lập di chúc có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình. Tuy nhiên, do pháp luật không quy định cụ thể như thế nào là “truất” nên hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng người lập di chúc không cho người thừa kế nào hưởng di sản theo di chúc thì người đó là người bị truất quyền. Theo quan điểm này thì có hai cách truất quyền khác nhau + Người bị truất quyền hưởng di sản trực tiếp Là việc người lập di chúc tuyên bố một cách minh bạch trong di chúc rằng một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản trừ trường hợp Điều 669. + Người bị truất quyền hưởng di sản gián tiếp Là việc người lập di chúc chỉ định một hoặc nhiều người để hưởng toàn bộ di sản nhưng lại không nói gì đến những người thừa kế theo pháp luật không được chỉ định. Khi đó người thừa kế không được chỉ định trở thành người bị truất quyền hưởng di sản không được nói rõ. Tuy nhiên theo quan điểm này thì người bị truất quyền hưởng di sản không mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định.
Người được hưởng thừa kế là người được hưởng di sản do người khác để lại. Tuy nhiên, để được hưởng di sản do người khác để lại, cá nhân phải không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản mà pháp luật quy định. Cá nhân không được quyền hưởng di sản là những người có hành vi nghiêm trọng tới mức pháp luật xác định họ không xứng đáng được hưởng di sản nữa. Trong trường hợp này gọi là “bị tước quyền hưởng di sản”. Trường hợp không được quyền hưởng di sản chủ yếu phụ thuộc vào quy định của pháp luật, ý chí của người để lại di sản chỉ có vai trò “khôi phục” quyền hưởng di sản cá nhân trong một số hoàn cảnh pháp luật quy định bị tước quyền hưởng di sản có thể được người để lại di sản quyết định cho tiếp tục hưởng di sản. Những người không được hưởng di sản đã được quy định tại Điều 7 Pháp lệnh thừa kế, Bộ luật dân sự 1995, Điều 643 Bộ luật dân sự 2005 và ngày nay được quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản a Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. 2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Ở đây, Bộ luật theo hướng “không được quyền hưởng di sản” nên người không được quyền hưởng di sản vẫn còn tư cách người thừa kế và chỉ quyền hưởng di sản không có. *Do xâm phạm tới người để lại di sản 1. Xâm phạm tới quyền nhân thân Theo điểm a khoản 1 Điều 621, Bộ luật dân sự 2015 a Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Đây là những trường hợp người được hưởng thừa kế có những hành vi nghiêm trọng đối với người để lại di sản. Ví dụ Người chồng giết người vợ vì người vợ ngoại tình. Thông thường, người vợ chết thì người chồng được hưởng thừa kế nhưng do người chồng đã cố ý xâm phạm tính mạng của người vợ nên pháp luật không cho phép người chồng được hưởng di sản của người vợ. Để bị xác định là người không được quyền hưởng di sản trên cơ sở quy định tại Điều 621, chúng ta phải hội tụ đủ hai điều kiện Điều kiện về nội dung Người liên quan đã “cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó”. Ở đây chúng ta phải chứng mình được người liên quan có những hành vi xâm phạm đó hay không, bên cạnh đó, chúng ta cần phải chứng minh hành vi của người liên quan là “cố ý” nên nếu có việc xâm phạm như vậy những là “vô ý” thì không thuộc trường hợp bị tước quyền hưởng di sản. Tương tự, “trong trường hợp người thừa kế chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người để lại di sản , người đó vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật”. Điều kiện về hình thức hành vi cố ý nêu trên phải được “kết án”. Với quy định này, khi cá nhân chưa bị “kết án” thì không thuộc trường hợp “không được quyền hưởng di sản”. 2. Vi phạm quyền được nuôi dưỡng Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau mà không thực hiện nuôi dưỡng cũng có thể bị tước quyền hưởng di sản. Theo điểm b khoản 1 Điều 621, Bộ luật dân sự 2015 b Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản Với quy định trên, việc tước quyền hưởng di sản của người thông thường được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào việc người này có bị tuyên án hay không. Tuy nhiên, để tước quyền hưởng di sản được áp dụng, người được thừa kế phải thuộc trường hợp có “nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản” và đã “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ” này. Ví dụ Một cụ già đã có con cái, nhưng lại bị con cái bỏ mặc không chăm sóc, nuôi dưỡng trong khi cụ già có nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng. *Do xâm phạm tới việc lập di chúc của người để lại di sản 3. Giả mạo di chúc Cá nhân được quyền tự do lập di chúc hay không lập di chúc, khi lập di chúc, cá nhân được tự do xác định người hưởng di sản cũng như phần di sản cụ thể cho từng người. Tại điểm d khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 sẽ không được quyền hưởng di sản d Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Việc biết người khác làm giả mạo di chúc có được suy luận là tham gia giả mạo di chúc hay không? Việc biết người khác giả mạo không thể suy đoán người này cũng tham gia vào công việc giả mạo nhưng nếu người đó biết mà không khai báo và có hành vi tiếp tay cho việc giả mạo di chúc thì người đó cũng sẽ bị quy vào việc tham gia giả mạo di chúc. 4. Trái ý chí của người để lại di sản Để tước quyền hưởng di sản của người giả mạo di chúc, chúng ta phải xác định được việc giả mạo di chúc “trái với ý chí của người để lại di sản”. Nghĩa là, nếu có giả mạo di chúc nhưng không trái với ý chí của người quá cố thì người giả mạo di chúc không bị tước quyền hưởng di sản. Làm thế nào để chứng minh di chúc giả mạo trái với ý chí của người để lại di sản? Chúng ta phải biết được nội dung của di chúc giả mạo và ý chí của người để lại di sản, sau đó đối chiếu 2 yếu tố này để có câu trả lời. Về nội dung của di chúc giả mạo thì dễ nhận biết. Nhưng nếu không có chứng cứ chứng minh ý chí của người để lại di sản thì chúng ta nên làm như thế nào? Khi người quá cố không nói rõ ý chí của mình trước khi chết thì họ ý định “ngầm” chuyển dịch di sản của mình cho người khác theo các quy định của pháp luật. Do đó, nếu giả mạo di chúc trái với các quy định này cho phép suy luận là trái với ý chí của người để lại di sản. 5. Người thụ hưởng từ di chúc giả mạo Theo Bộ luật dân sự người không được quyền hưởng di sản là “người … giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”. Với quy định này, có thể hiểu người được hưởng di sản theo di chúc giả mạo và người có hành vi giả mạo di chúc là 1. Vậy trong trường hợp người giả mạo di chúc không hưởng di sản từ việc giả mạo và người được hưởng di sản từ việc giả mạo là người khác thì pháp luật xử lý như thế nào? Trong trường hợp này, “người khác” thường sẽ là người thân hay là người có mối quan hệ thân thiết, gần gũi với người giả mạo di chúc vì vậy việc người giả mạo di chúc không phải là người được hưởng thừa kế mà “người thân” được hưởng thì không có khác biệt gì lớn vậy nên “người thân” trong di chúc giả mạo sẽ không được hưởng tài sản thừa kế. Đây là vấn đề chưa được đề cập trong bộ luật hiện hành vậy nên chúng ta nên mở rộng thêm là quy định này cũng được áp dụng cho cả việc giả mạo nhằm làm cho “người thân” của người giả mạo được hưởng di sản. Bài viết được tham khảo từ sách “Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của Đỗ Văn Đại. Các tìm kiếm liên quan đến Trường hợp không được quyền hưởng di sản sự khác nhau giữa truất quyền thừa kế và không được hưởng di sản, pháp luật quy định ai là người không được làm chứng trong di chúc?, truất quyền thừa kế và tước quyền thừa kế, người không được quyền hưởng di sản theo bộ luật dân sự 2015, những người không được hưởng di sản thừa kế, điều 643 bộ luật dân sự 2015, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, quyền thừa kế là gì
người không được quyền hưởng di sản